PHẠM HỮU LẦU - LÃNH ĐẠO TIỀN BỐI TIÊU BIỂU CỦA ĐẢNG VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Thứ hai - 06/10/2025 23:31
Phạm Hữu Lầu (1906 - 1959), bí danh Tư Lộ, sinh năm 1906, quê làng Hòa An, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là phường Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Cha là ông Phạm Hữu Nhượng và mẹ là bà Nguyễn Thị Ruộng đều ở tỉnh Sa Đéc.

Lúc nhỏ, ông ham học và học giỏi (học đến hết lớp 3 (cours élémentaire))1, nhưng gia đình nghèo và cha mất sớm, nên năm 13 tuổi phải nghỉ học, đi làm thợ sơn, nghề hớt tóc để có tiền giúp mẹ, nuôi em2. Tiệm hớt tóc lợp lá dựa vào vách tường ở một căn phố trung tâm chợ Cao Lãnh, trên vách tường có viết những câu chữ: Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh; Danh dự là nghĩa vụ…v.v.

Ngoài việc hiếu thảo, trách nhiệm với gia đình, ông còn tham gia các hoạt động xã hội như tham gia hội “quan hôn, tang tế”, giúp đỡ xóm làng cất nhà, giúp người khi hoạn nạn, ốm đau. Cũng chính nhờ những hoạt động này, ông có điều kiện đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, bắt nhịp với những tư tưởng mới và sớm có tinh thần cách mạng. Tháng 8 năm 1926, ông cùng một số bạn trẻ khác tham gia tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh ở chợ Cao Lãnh.

PHL
Chân dung Phạm Hữu Lầu 
 
 
PHL 2
Thông báo quyết định của Bộ Chính trị công nhận đồng chí Phạm Hữu Lầu là lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.

Tháng 9 năm 1928, Phạm Hữu Lầu được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên, được bầu làm tổ trưởng. Đến tháng 10 năm 1929, ông là người đầu tiên của tỉnh Sa Đéc được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng. Sau đó, được cấp trên cử đi “vô sản hóa” ở đề-pô (dépôt) xe lửa Dĩ An3 (Sài Gòn). Để có nơi làm địa điểm họp mặt tuyên truyền cách mạng và để che mắt kẻ thù ông mở một tiệm hớt tóc ở ngã tư Đường Mồi (địa điểm nay gần trường Tiểu học Lý Thường Kiệt, Khu phố Thống Nhất, phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương)4. Mặt khác ông bí mật liên lạc với Nguyễn Đức Thiệu (tức Tích) để vận động công nhân đấu tranh, xây dựng cơ sở và tổ chức thành lập chi bộ Đảng tại nhà máy.

Đầu tháng Giêng năm 1930, trước cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập hội nghị hợp nhất 3 tổ đảng cộng sản, Phạm Hữu Lầu được bầu làm một trong 9 thành viên ban chấp hành Trung ương Lâm thời của Đảng cộng sản.

Giữa năm 1930, ông đi dự hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất ở Hương Cảng. Đến cảng Hải Phòng thì bị mật thám Pháp bắt đưa về nhà lao Hỏa Lò, Hà Nội. Sau đó, đưa về Sài Gòn xét xử ở tòa hình Kiến An5, kết án tù chung thân, phát lưu và đày ra Côn Đảo, ngày 29 tháng 1 năm 1931.

Năm 1936, Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở nước Pháp đã quyết định ân xá một số lớn chính trị phạm ở Đông Dương, theo đó công văn số 1725-AP, ngày 5 tháng 6 năm 1936 của Toàn quyền Đông Dương René Robin, ký gửi Thống đốc Nam kỳ đề nghị “trả tự do” cho Phạm Hữu Lầu (số tù 3832). Giai đoạn năm 1938-1939, sau khi ra tù ông phụ trách và viết bài cho báo “Dân chúng” (Le peuple) ở Sài Gòn, cổ vũ cho phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới, thường ký tên Racosi. Đến cuối năm 1939, ông lại bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai và kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo.

Năm 1941, tại Côn Đảo khi ở banh (bagne) III có một số tù Khmer tham gia phong trào chống Pháp của sư sãi Phnôm Pênh (Campuchia), Phạm Hữu Lầu cùng các đồng chí của mình đã giúp đỡ anh em tù Khmer. Mặc dù phong tục tập quán và trình độ giác ngộ có khác nhau, nhưng qua sự việc này những bạn tù Khmer có cảm tình hơn với người cộng sản Việt Nam.

Cách mạng Tháng Tám thành công, ông từ Côn Đảo về đất liền, từng bước trải qua những nhiệm vụ: bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc, Tỉnh ủy Mỹ Tho (tháng 5 năm 1951) và kiêm Uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Phân liên Khu miền Đông, phụ trách vùng Đồng Tháp Mười.

Sau hiệp định Genève, ông được phân công ở lại miền Nam. Từ cuối tháng 12 năm 1956 đến tháng 1 năm 1957, Xứ ủy Nam Bộ họp hội nghị lần thứ II để nhận định tình hình, đề ra phương hướng và nhiệm vụ mới cho cách mạng. Trước ngày diễn ra hội nghị do sự lùng sục gắt gao của Mỹ - Diệm, nhiều đảng viên sa vào tay giặc, vì vậy hội nghị không có điều kiện họp trong nước mà phải họp ở Phnôm Pênh. Sau hội nghị, Lê Duẩn ra Bắc nhận nhiệm vụ mới; Phạm Hữu Lầu thay thế lãnh nhiệm vụ bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Ngày 1 tháng 12 năm 1959, do làm việc cật lực, bệnh cũ, hậu quả những năm tháng bị tra tấn, tù đày ông mất ở Campuchia. Năm 1985, Tỉnh ủy Đồng Tháp đưa hài cốt ông về cải táng tại nghĩa trang liệt sĩ tỉnh.

Để ghi nhận những cống hiến trong suốt quá trình hoạt động cách mạng Việt Nam. Ngày 10 tháng 5 năm 2024, Bộ Chính trị công nhận đồng chí Phạm Hữu Lầu là lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam, theo công văn thông báo số 9862-CV/VPTW của Văn phòng Trung ương Đảng.

Ngày 23 tháng 9 năm 2025, Đồng Tháp tổ chức lễ khánh thành công trình Khu lưu niệm Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng; trong khuôn viên khu lưu niệm có không gian tưởng niệm “Đồng chí Phạm Hữu Lầu - Người đảng viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Đồng Tháp”.

 

Chú thích:

[1] Thời Pháp thuộc, bậc tiểu học trải qua 6 lớp là: lớp đồng ấu (cours enfantin), lớp dự bị (cours préparatoire), lớp sơ đẳng (cours élémentaire), lớp nhì đệ nhất (cours moyen un), lớp nhì đệ nhị (cours moyen deux), cuối cùng là lớp nhất (cours supérieur). Ba lớp đầu được gọi là bậc sơ học, khi học hết lớp sơ đẳng, phải thi lấy bằng Sơ học yếu lược (certificat élémentaire) rồi mới được học lên lớp tiếp theo.

2 Theo “Đồng Tháp nhân vật chí”, viết là “nuôi 2 em”, nhưng theo bản tiểu sử chép tay vào cuối tháng 2 năm 1954 của ông (Phạm Hữu Lầu) thì ông có 2 người chị gái và một người em gái út (thứ 5).

3 Nhà máy xe lửa Dĩ An có tên gọi chính thức là “Grand Atelier des Chemins de Fer de Dĩ An” (cơ xưởng lớn của ngành đường sắt tại Dĩ An). Dân địa phương và công nhân của nhà máy quen gọi là cơ xưởng hỏa xa Dĩ An, gọi tắt là đề-pô (dépôt) xe lửa Dĩ An, thuộc tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh).

4 Nay là phường Dĩ An, Thành phố Hồ Chí Minh.

5 Tòa hình Kiến An ở Sài Gòn xưa, còn được gọi là Palais de Justice de Saigon (Tòa Đại hình Sài Gòn), là một công trình kiến trúc do người Pháp xây dựng vào năm 1881 và hoàn thành năm 1885. Sau năm 1954, nơi này được đổi tên thành Tòa án Quốc gia, và từ sau năm 1975 đến nay, trở thành trụ sở của Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Q.Thắng – Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

2. Ban tuyên giáo Tỉnh ủy và Hội Khoa học Lịch sử Đồng Tháp (2015), Đồng Tháp nhân vật chí, Nhà xuất bản Trẻ.

3. Tiểu sử viết tay của Phạm Hữu Lầu, tiểu sử được ông viết vào cuối tháng 2 năm 1954 trong dịp đi dự Hội nghị Liên hoan Liên Việt Nam Bộ (29 trang).

 

 

Tác giả bài viết: D.v.T

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin cũ hơn

Thống kê lượt truy cập
  • Đang truy cập79
  • Hôm nay13,320
  • Tháng hiện tại136,203
  • Tổng lượt truy cập8,370,237
ai5
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây