"Lúa nổi" ở vùng Đồng Tháp Mười xưa

Thứ bảy - 19/07/2025 08:38
“Lúa nổi”, người Pháp gọi là “riz flottant” người Anh gọi “floating rice” dịch theo nghĩa từ vựng “lúa nổi” hay “lúa chạy nước”, nghĩa là khi nước dâng cao đến đâu thì cây lúa cũng mọc lên cao đến đó. Trong Nông cổ mín đàm (農賈茗談), số 26 (20/2/1902) gọi là “lúa sông lớn”. Trong “Nomenclature des produits de la Cochinchine présentés à la foire de Hanoï de 1924” , mục tỉnh Châu Đốc gọi “riz flottants” là “lúa sạ” .

Giống lúa nổi có lẽ xuất hiện từ khá sớm, nhưng đến năm 1891, một linh mục cai quản họ đạo Năng Gù mới đem lúa nổi về trồng thử nghiệm. Sau đó, khoảng năm 1901, ông Phan Văn Vàng quê ở làng Đa Phước, tổng Châu Phú, tỉnh Châu Đốc đã đem giống lúa nổi từ vùng tỉnh Kratié (ក្រចេះ), một tỉnh nằm trong lưu vực sông Mê Công (xứ Cam Bốt) về lần đầu trồng tại làng Đa Phước. Khi mới thu hoạch lần đầu, có nhiều người thấy trồng dễ nên làm theo. Từ làng Đa Phước mở rộng ra làng Phước Hưng, Châu Phú và làng Hà Bao… sau đó, mở rộng sang Đồng Tháp Mười.

Báo “Nông cổ mín đàm” ngày 30 tháng 7 năm 1907, trong bài tựa “Canh hoang biến pháp”, nho sĩ Đặng Thúc Liêng có viết: Giống “Lúa sạ tên Tàu lụ” trước tiên ở núi Tượng. Trước đó, năm 1906, chủ tỉnh Sa Đéc (có lẽ là chủ tỉnh Caillard) mua giống đem qua Đồng Tháp Mười.[6, tr. 251]
 

LUA NOI
Thu hoạch lúa bằng vòng hái (1911) (nguồn: BnF)

Lúa nổi có hơn 10 loại giống, trong đó có khoảng 6 loại được lựa chọn trồng phổ biến:

- Nàng rừng, thích hợp nhiều loại đất, bông sai hạt. Dé lúa dài từ 2,8 tất tới 3 tất, hạt lớn và dài;

- Sông lớn, giống này được biết đến đầu tiên, phổ biến. Dé lúa dài từ 1,7 tất tới 2,3 tất, ít hạt, hạt lúa lúa, có bề ngan;

- Nàng đùm, hạt nhỏ dài, bông lúa ngắn khoảng 2 tất, cho hạt khá;

- Lúa sậy, có tên gọi khác “năm lượng”;

- Nam Vang (ba sào), bông lúa dài từ 2,8 tất tới 3,2 tất, hạt dài;

- Tá họa, ưa đất nông, lúa nhanh chín, hạt lúa lớn, độ dài hạt trung bình có đuôi.

Bốn loại giống còn lại:

- Đuôi trâu, bông lúa dài hạt;

- Phụng tiên, hạt không sai;

- Nàng tây, dần ít phổ biến, do chín muộn;

- nàng phược, dần ít phổ biến, do hạt lúa xấu. Trong các giống lúa trên thì “nàng rừng” được dùng nhiều: “Lúa nổi”, giống “lúa nàng rừng”là loại phổ biến nhất, được trồng hàng năm trên tất cả những cánh đồng của tỉnh Châu Đốc, vùng sông Không giang (Mê Công). Nó được sạ vào đầu mùa mưa, cây lúa được cao lên dần theo nước nổi và có thể cao tới 4 mét...”[1]
LUA NOI 2
Đập lúa (1929) (nguồn: BnF)

Có 2 cách gieo trồng lúa nổi chủ yếu: “nọc cấy, gieo hạt”“sạ vãi”

- Dùng “nọc cấy, gieo hạt”, “đến khi có mưa đầu, chừng tháng ba là muộn, phải đợi cho đất thấm nước cho khá, thì dùng nọc xắng lỗ cách nhau chừng năm tấc, mỗi lỗ sâu chừng năm tấc, mỗi lỗ sâu chừng ba bốn phần trăm, bỏ từ 12 cho tới 15 hột giống cũng lấp sơ một lớp đất.” [5, tr. 7]

- Sạ vãi, tháng giêng, tháng hai hoặc tháng 3 khi cắt lúa mùa xong đốt gốc rạ và cỏ cho sạch đồng, chờ khi có mưa cày đất. Cày xong thì sạ lúa, rồi bừa sơ cho hạt lúa vùi xuống đất để tránh chim ăn và nước khỏi làm trôi hạt lúa. Lúa giống sạ khỏi ngâm nước, một mẫu sạ chừng 3 đến 5 giạ, trung bình là 4 giạ. Nhưng thông thường sạ 3 giạ là đủ, khi lúa nẩy mầm phát triển nếu có hao hụt, sạ dặm thêm.

Đối với lúa gieo mạ cấy, chỉ cần 1 giạ là có thể gieo đủ cho một mẫu; lúa sạ nhiều hơn lúa gieo mạ cấy 2-3 giạ/mẫu, nhưng lợi công cấy. Một mẫu ruộng, mất khoảng 16 ngày công cấy, chi phí khoảng trên 20 ligature (lig)[1]. Một giạ lúa giá khoảng 2 lig.28; lấy 20 lig chia 2 lig.28 bằng khoảng 8 giạ lúa (công cấy).

Sạ lúa rồi chẳng cần phải chăm sóc, để phát triển tự nhiên. Nhưng phải xem dọn cỏ, rau muống hoặc bèo nhựt bổn (lục bình) chiếm diện tích lúa. Lúa sạ nhờ sức nước lớn mà sinh trưởng theo, nước lên bao nhiêu lúa cao bấy nhiêu. Khi nước rút lúa ngã nằm dài trên đất ruộng, mỗi mắc bám rễ xuống đất sinh ra tược mới, một cây lúa có chừng 5-6 tược. Lúa trồng trong khoảng 3 tháng, đến tháng 10 trổ bông, tháng 11 chín đều, tháng 12 thu hoạch; mỗi mẫu thu hoạch được 70 – 100 giạ.

Về lý thuyết, việc phát hiện và du nhập giống lúa nổi như là một cuộc cách mạng nông nghiệp với khả năng vượt theo nước, nó hoàn toàn vượt trội so với các giống lúa bổn xứ có trước đó. Nhưng thực tế, cây lúa sẽ chết khi nước lên quá nhanh và năng suất kém khi nước nhỏ. Vì vậy không ổn định được năng suất, phụ thuộc nhiều vào sự “rủi, mai”. Trong “Tìm hiểu đất Hậu Giang…”, Sơn Nam cũng có nhận định tương tự: “…nông dân nếu chỉ trông cậy vào lúa sạ thì chẳng tài nào nuôi sống cả gia đình. Cày bừa gieo hạt không phải tốn công sức để cấy, tới mùa thu hoạch; xem như đơn giản, nhàn rỗi nhưng năng suất đã kém lại không ổn định”. Chính vì vậy, lúa nổi đã được “đồng bào” ta biết từ sớm nhưng chẳng “du nhập” vì kém năng suất, gạo không ngon cơm [6, tr. 251]

Diện tích canh tác lúa nổi ở Đồng Tháp Mười tuy có tăng theo thời gian, nhưng cơ bản diện tích của nó vẫn chiếm tỉ lệ nhỏ so với các lúa khác. Có 6 trên 14 tổng của Đồng Tháp Mười trồng lúa nổi [8]; trải dài ven sông Tiền: An Phước, Phong Thạnh Thượng, Phong Nẫm, Phong Thạnh, Phong Phú và Phong Hòa. Các tổng còn lại chủ yếu trồng lúa cấy, những tổng làng có đất trồng lúa cấy giá cao hơn nhiều lần đất trồng lúa nổi. Đất trồng lúa nổi thường cho năng suất thấp và không ổn định nên giá thành khá rẻ hơn. Vì thế lúa cấy vẫn được trồng khá phố biến ở vùng Đồng Tháp Mười trong một thời gian dài. Tuy nhiên lúa nổi cũng là một sản vật biểu trưng và một thời ký ức văn hóa còn lưu dấu của vùng Đồng Tháp Mười.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1996), Địa chí Đồng Tháp Mười, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

2. Nguyễn Văn Kiềm và Huỳnh Minh (2003), Tân Châu xưa, Nhà xuất bản Thanh niên.

3. Exposition Coloniale Internationale (1931), Riziculture en Indochine, Imprimerie d’Extrême – Orient, Hanoi.

4. ? (1924), Nomenclature des produits de la Cochinchine, présentés à la foire de Hanoï de 1924, Décembre MCMXXIV, Hanoi.

5. ? (20/2/1902), Giậy nói về sự làm lúa nước nổi, Nông cổ mín đàm.

6. Sơn Nam (2019), Tìm hiểu đất Hậu Giang, NXB Trẻ.

7. Hồ Văn Lang (1924), Từ Nam chí Bắc, Imprimerie Hồ Văn, Sadec.

8. Yves Henry (1932), Économie agricole de l’Indochine, Publication du Gouvernement général de l’Indochine, Hà Nội.

 

[1] “Ligature” đơn vị tiền tệ nhỏ hơn của đồng bạc Đông Dương (piastre); 1 piastre (piaster, bạc) = 100 centimes. Ligature có thể được hiểu là một cách gọi dân gian, không chính thức cho centime.


[1]Nguyên văn: “Le riz flottants, dont le “lúa nàng rừng” est la variété la plus répandue est cultivé dans toutes les plaines de la province de Chaudôc recouvertes, chaque année, par la crue du Mékong. Il est semé lors des premières pluies et sa tige ne cesse de s’élever au fur et à mesure de la montée des eaux. Il peut atteindre ainsi plus de 4 mètres de hauteur…” [4, tr. 147]

Tác giả bài viết: DvT

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê lượt truy cập
  • Đang truy cập36
  • Hôm nay3,955
  • Tháng hiện tại103,621
  • Tổng lượt truy cập8,180,672
ai5
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây