Chùa Bửu Lâm ở Đồng Tháp

Thứ tư - 30/07/2025 02:55
Bửu Lâm còn được gọi là chùa Tổ Cái Bèo thuộc xã Bình Hàng Trung, là nơi phát tích dòng truyền thừa Lâm Tế tại Nam Bộ. Chùa có lịch sử cách nay hơn 300 năm ra đời khoảng cuối thế kỷ XVII, sư Tánh Nhẫn là vị tổ khai sơn. Chùa được công nhận di tích cấp tỉnh vào ngày 20 tháng 4 năm 2001

Ở phía Tây Nam của tỉnh Đồng Tháp mới, có “Bửu Lâm Cổ Tự” thuộc phường Mỹ Tho, ra đời vào năm 1803, được xếp hạng di tích quốc gia ngày 13 tháng 9 năm 1999, cũng theo dòng phái Lâm Tế. Đây là hai ngôi chùa tiêu biểu của tỉnh Đồng Tháp mới, cùng mang tên “Bửu Lâm” nguyên văn chữ Hán “字 古 林 寶” (Bửu Lâm Cổ Tự).
 

buu lam
Chùa Bửu Lâm ở xã Bình Hàng Trung
buu lam 2
“Bửu Lâm Cổ Tự” ở phường Mỹ Tho (Nguồn báo Đồng Tháp)

Từ khi nhà Trần mất ngôi (1400), phái Trúc Lâm (林 竹) do vua Trần Nhân Tông (1278 – 1293) sáng lập xem như thất truyền. Thế kỷ XVII, phái Trúc Lâm được phục hưng ở Đàng Trong gắn liền với các thiền sư nổi tiếng, tiêu biểu như Thiền sư Minh Châu Hương Hải vốn là một cử nhân Nho học, từng làm Tri phủ Triệu Phong, từ chức tước, ẩn tu ở núi Tiêm Bút La, trên cù lao Đại Lãnh, được chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) cho người đón về Phú Xuân và sau đó (khoảng 1667) lập Thiền Tịnh viện ở núi Qui Cảnh (cửa biển Tư Dung) để thiền sư hoằng hóa. Uy tín và đạo hạnh của thiền sư có ảnh hưởng lớn đối với triều đình, theo “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn thì có đến hàng ngàn người trong hoàng tộc và quan lại thọ giới với thiền sư.

Khoảng năm 1680, thiền sư Minh Châu Hương Hải bị chúa Hiền bắt giam vì nghi ngờ có quan hệ với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Qua điều tra, xét thấy chưa đủ chứng cớ nên được tha. Đến năm 1682, thiền sư Hương Hải cùng khoảng 50 đệ tử Trúc Lâm trốn ra Đàng Ngoài.

Từ khi thiền sư Hương Hải trốn ra Đàng Ngoài, các tăng sĩ phái Trúc Lâm còn lại ở Đàng Trong hoặc phải mai danh ẩn tích hoặc phái trốn vào phía Nam. Điều này làm cho Đàng Trong lâm vào tình trạng thiếu tăng sĩ, đây là điều kiện để phái Lâm Tế[1] (một tông phái bắt nguồn từ phương Bắc) có cơ sở phát triển mạnh. Có lẽ trong quá trình phát triển phái Lâm Tế có sự giao thoa với phái Trúc Lâm. Từ miền Trung, tổ Tánh Nhẫn Thiện Châu mang dòng phái Lâm Tế vào Nam, trước tiên là ở khu vực phía Nam sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp (thôn Tân Đông, tổng An Thạnh, huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành). Sau một thời gian, tổ Tánh Nhẫn tìm đến một địa điểm khác ở rạch Cái Bèo,cách xa xóm Thới Bình (sau là thôn Bình Hàn Trung) dựng am tre lá để tu hành, phát triển dần như chùa Bửu Lâm ngày nay.

Tuy thời gian ra đời khác nhau và hiện chưa tìm được mối liên hệ giữa 2 ngôi chùa “Bửu Lâm” nhưng có một thực tế được nhận thấy rất rõ. Trong quá trình hình thành và phát triển chùa Bửu Lâm đã có những đóng góp nhất định vào tiến trình lịch sử dân tộc và đã được công nhận là di tích cấp tỉnh, quốc gia; trở thành một minh chứng sống động nhất.

 

Tài liệu tham khảo

1. Ban tuyên giáo Huyện ủy Cao Lãnh (2003), Di tích Chùa cổ Bửu Lâm, NXB Trẻ.

2. Lê Quý Đôn (2013), Kiến văn tiểu lục (1-2), NXB Trẻ, Hồng Bàng.

 

[1] Theo “Ngũ gia tông phái ký toàn tập” (quyển Thượng) cho biết từ phương Bắc phổ biến 5 tông phái: Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Quy Ngưỡng, Pháp Nhãn. Khi truyền vào Việt Nam có 2 tông chính chiếm đa số là Lâm Tế và Tào Động. [1, tr.130]

Tác giả bài viết: DvT

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin cũ hơn

Thống kê lượt truy cập
  • Đang truy cập71
  • Hôm nay16,447
  • Tháng hiện tại141,404
  • Tổng lượt truy cập8,375,438
ai5
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây