Bảo tàng tỉnh Đồng Tháp

https://baotang.dongthap.gov.vn


Một số tên gọi của vùng Đồng Tháp Mười xưa

Do xuất phát từ nhiều tiêu chuẩn phân vùng khác nhau và được ghi nhận trong nhiều thời điểm khác nhau nên quan điểm về giới hạn địa lý của Đồng Tháp Mười cũng khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, nếu xét về địa lý tự nhiên, vùng bưng tràm nhiễm phèn Đồng Tháp Mười nằm cả 2 bên biên giới Việt Nam – Campuchia. Theo đó, Đồng Tháp Mười phần thuộc lãnh thổ Việt Nam: phía Bắc là ranh giới Việt Nam - Campuchia, phía Tây giáp sông Tiền, phía đông giáp Vàm Cỏ Đông và Nam giáp Quốc lộ 1 (Quốc lộ 4 cũ) đoạn Mỹ Tho qua Tân An đến Bến Lức. [1]

Giai đoạn vương quốc Phù Nam, vùng đất Đồng Tháp Mười thuộc tiểu quốc “Chinh phục từ đầm lầy” khoảng từ thế kỷ I – II đến khoảng VI – VII CN, được cai trị bởi thái tử dòng dõi Kuandinya (Kiều Trần Như).
 

BAN DO
Định Tường toàn đồ, ghi vùng Đồng Tháp Mười là “lâm tẩu” [4]

Dưới thời quân chủ vùng Đồng Tháp Mười được gọi chung là “trạch” () “lâm tẩu” (林藪) nghĩa chung là vùng “chằm ao”, trong “Gia định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức miêu tả vùng này như sau:

Huyện Kiến Đăng từ đông sang tây tiếp giáp với vùng biên giới Cao Miên có nhiều bưng biền, chằm, ao, cá tôm ăn không hết. Cứ đến tháng 4, 5 khi mưa xuống, nước tràn thì cá sinh trưởng đầy dẫy kiếm ăn ở trong ruộng, trong đầm. Phàm những nơi có nước và có cỏ dù sâu chỉ độ hơn tấc ta cũng có cá ở; từ tháng 10 trở đi là hết mùa mưa, nước rút, cá xuống sông cho nên lệ có thu thuế cá, gọi là thuế dự cấp, ai bỏ tiền ra đấu thầu mới được hành nghề. [2, tr. 65]
 

ĐTM
Quang cảnh vùng Đồng Tháp Mười (la Plaine des Joncs) khoảng trước năm 1930

Thời Pháp thuộc vùng Đồng Tháp Mười được thể hiện trên bản đồ (do người Pháp vẽ) với những tên khác nhau. Tên gọi, khi thì dùng chung cho cả vùng, khi thì bắc, nam của vùng có tên khác nhau:

- Trong bản đồ “Basse Cochinchine - Divisions administratives et politiques” (Hành chính và chính trị Nam kỳ) của nhà xuất bản Viễn Đông (Impr. d’Extrême-Orient), được ấn hành năm 1861 và “Carte générale Basse Conchinchine et Cambodge” (Bản đồ Nam kỳ và Cam Bốt) của Comte P. de Chasseloup-Laubat, năm 1863 có tham khảo bản đồ vẽ năm 1861 của Đô đốc Hải quân Léonard Victor Joseph Charner) và tham khảo bản đồ vẽ năm 1862 của Đô đốc Hải quân Louis Adolphe Bonard, thì vùng Đồng Tháp Mười được gọi bằng cụm danh từ chung “Plaine inonnée couverte h’herbes” (Cánh đồng ngập nước có nhiều cỏ bao phủ);

- “Carte générale de la Basse Conchinchine” (Bản đồ Nam kỳ), năm 1865 của Vice Amiral Louis Adolphe Bonard. Ở phía Bắc Đồng Tháp Mười được gọi là “Vaste plaine inondée couverte d’ herbes” (Cánh đồng rộng bao la ngập nước có nhiều cỏ bao phủ) và ở phía Nam Đồng Tháp Mười gọi là “Grande plaine d’herbes couverte d’eau pendant l’hivernage et s’étendant jusqu’au Vaïco” (Cánh đồng lớn nhiều cỏ bao phủ, có nước theo mùa và kéo dài cho tới Vàm Cỏ);

- Bản đồ “Cochinchine Possessions français” (Nam kỳ thuộc Pháp) của Imp. Impériale (Saïgon) ấn hành năm 1868, gọi là “Plaine inondée” (Cánh đồng ngập nước);

- Trong “Carte de la Cochinchine en 1872” (Bản đồ Nam kỳ, năm 1872), của Dr. Claude Albert Morice, thì vùng Đồng Tháp Mười gọi là “Herbes, joncs et réseaux” (Cỏ, cỏ bàng chằng chịt);

- Bản đồ “La Conchinchine français” (Nam kỳ thuộc Pháp), năm 1878 của Mr. Bigrel, phía Bắc Đồng Tháp Mười gọi là “Plaine inondée” và Nam Đồng Tháp Mười gọi là “Plaine des Joncs” (Cánh đồng cỏ bàng);

- Trong “Carte générale de la Cochinchine Française, du Royaume de Cambodge, et une partie des Royaumes de Siam et d’Annam”[1], năm 1884 của Challamel Aîné (Paris), gọi là “Plaine des Joncs”;

- “Carte physique et politique de la Cochinchine”(Bản đồ tự nhiên và chính trị Nam kỳ), ấn hành năm 1906, của Augustin Challamel (Paris), vùng Đồng Tháp Mười được gọi “Plaine des joncs inondée tous temps” (Cánh đồng cỏ bàng ngập nước quanh năm).

 Có nhiều người dịch “Plaine des Joncs” “Đồng cỏ lác” nếu dịch theo từ vựng “Đồng cỏ bấc” một loại cỏ bụi như cỏ lác. Có lẽ khi người Pháp đến vùng này thấy có loại cỏ giống cỏ “jonc”, trong hệ thống từ ngữ Pháp không có từ tương đương nên mới dùng “jonc”.

Theo Nguyễn Đình Đầu, trong Địa chí Đồng Tháp Mười: Dịch chữ “jonc” là cói hay lác thì không sai, nhưng dịch cho đúng sự thực địa lý đương thời thì nên dịch là “Đồng cỏ bàng”, vì khi xưa từ kinh mới sông Chanh tới Gò Tháp Mười có rất nhiều loại cây “không tâm bồ”, tục danh “cỏ bàng”. [1, tr. 113]

Trong “Nomenclature des produits de la Cochinchine présentés à la foire de Hanoï de 1924”[2][3], sách giới thiệu các sản phẩm đấu xảo năm 1924. Trong sách các sản phẩm đấu xảo được ghi song ngữ: “Nattes en jonc” được ghi là “đệm bàng”,“cà-ròn” được làm bằng bàng cũng được ghi “sacs en jonc”…Dựa trên cơ sở này kết luận từ “jonc” được dịch là cỏ “bàng”.

Những bản đồ mà người Pháp vẽ vào các năm 1861, 1863 thì vùng ĐỒNG THÁP MƯỜI đều được dùng cụm danh từ chung (không viết hoa) Plaine inonnée couverte d’herbe. Những bản đồ mà người Pháp vẽ ở những năm tiếp sau đó 1881, 1884 thì cụm từ “Plaine inonnée couverte d’herbe” không còn dùng nữa mà được thay bằng  Plaine des Joncs (viết hoa) và ở phía Bắc Đồng Tháp Mười còn thỉnh thoảng dùng Plaine inonnée.

Như vậy, dưới thời Pháp thuộc vùng Đồng Tháp Mười được gọi là “Plaine des Joncs” (viết hoa) được dùngvới tư cách là tên riêng. Và cách đặt tên địa danh dựa trên sự cảm nhận trực quan này của người Pháp, phù hợp với lối tư duy của lưu dân thời khai hoang của người Việt.

Trong các tên gọi trên, “Plaine des Joncs” được biết và sử dụng nhiều hơn cả. Đơn cử, trong tác phẩm ấn hành năm 1928 của Victor Delahaye dùng “Plaine des Joncs” để gọi tên cho vùng Đồng Tháp Mười: “la Plaine des Joncs (Indochine française) et sa mise en valeur”(Đồng Tháp Mười và tiến trình khai hoang). Hay trong “Annuaire de la Cochinchine française” (Niên giám thống kê Nam kỳ),“Annuaire général de l’IndoChine française”(Niên giám thống kê Đông Dương)…đều gọi vùng Đồng Tháp Mười là “Plaine des Joncs”, có viết hoa.

Song song với tên gọi do người Pháp đặt đã nêu trên, trong dân gian vẫn có tên gọi khác, đó là “Tháp Mười”.Có ý kiến tên “Tháp Mười” xuất hiện từ năm 1866, ý kiến này, lấy mốc năm gửi báo cáo của Võ Duy Dương cho vua Tự Đức để kết luận năm ra đời của tên “Tháp Mười”.

Theo bản đồ Nam kỳ thuộc Pháp (Basse Cochinchine Francaise), được người Pháp vẽ khoảng năm 1881 nhưng vẽ theo hành chính của Nam klục tỉnh nhà Nguyễn có từ trước năm 1861, thì “Tháp Mười” đã có tên trên bản đồ hành chính.Chính vì vậy, việc lấy năm 1866 là mốc thời gian ra đời của tên gọi Tháp Mười là chưa xác đáng.

Tóm lại, vùng đồng Tháp Mười được hình thành và phát triển từ rất sớm,tên gọi “Đồng Tháp Mười” vừa mô tả đặc điểm địa hình – sinh thái của vùng, vừa hàm chứa yếu tố lịch sử và văn hóa lâu đời. Nó là biểu trưng của một miền quê Nam Bộ trù phú, kiên cường, gắn bó với thiên nhiên và bề dày truyền thống đấu tranh yêu nước.

 

 

Tài liệu tham khảo:

1. Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1996), Địa chí Đồng Tháp Mười, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

2. Trịnh Hoài Đức – Hậu học Lý Việt Dũng (dịch và chú giải) – Ts. Huỳnh Văn Tới (hiệu đính và giới thiệu) (2006), Gia Định thành thống chí, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai.

3. ? (1924), Nomenclature des produits de la Cochinchine, présentés à la foire de Hanoï de 1924, Décembre MCMXXIV, Hanoi.

4. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu Địa bạ triều Nguyễn-Định Tường, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.

 

[1]Dịch: Bản đồ “Nam kỳ thuộc Pháp, vương quốc Cam Bốt và một phần các vương quốc Xiêm và An Nam”.

[2]Dịch: Danh mục sản phẩm Nam kỳ trưng bày tại buổi đấu xảo Hà Nội năm 1924.

Tác giả bài viết: DvT

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây